Đây là ông cậu tôi,
em trai của ông nội tôi.
Ông tên là Joe McKenna.
Lúc đó, ông là một người chồng trẻ,
là cầu thủ bóng rổ bán chuyên nghiệp
và là lính cứu hỏa thành phố New York.
Gia đình hay kể rằng
ông thích làm lính cứu hỏa,
sau đó, vào năm 1983,
vào một ngày nghỉ,
ông nộp đơn vào đội cứu hỏa.
Để chuẩn bị cho ngày đó,
ông đánh bóng dàn đồng,
các tay vịn trên xe cứu hỏa,
dụng cụ trên tường,
và những vòi phun chữa lửa,
rồi một thiết bị kim loại, to và nặng,
rơi khỏi giá và rơi trúng ông.
Vài ngày sau,
vai của ông bắt đầu đau.
Sau đó 2 này, ông phát sốt.
Cơn sốt tăng dần, tăng dần.
Vợ ông chăm sóc cho ông,
nhưng không có gì thay đổi,
khi họ gọi bác sĩ địa phương,
bác sĩ này cũng không làm gì được.
Họ gọi một chiếc taxi
và chở bệnh nhân đến bệnh viện.
Y tá ở đó nhận thấy ngay là
ông bị nhiễm trùng,
lúc đó người ta gọi là "nhiễm trùng máu,"
và dù họ không nói ra,
họ vẫn biết ngay
họ không làm gì được.
Họ không can thiệp được vì
nhiều thứ mà chúng ta đang dùng
để chữa nhiễm trùng vào lúc đó chưa có.
Thử nghiệm đầu tiên của penicillin,
khánh sinh đầu tiên,
là 3 năm sau.
Những người bị nhiễm trùng được cứu
sống trước đó, đều là do họ gặp may,
phần lớn không thể qua khỏi.
Ông cậu tôi không may.
Ông ở bệnh viện một tuần,
co giật với cơn nóng lạnh,
bị mất nước và mê sảng,
rồi lịm dần như là các bộ phận yếu dần.
Sức khỏe của ông ngày càng tuyệt vọng
mọi người từ trạm cứu hỏa
xếp hàng để cho máu
với hy vọng làm giảm nhiễm trùng
bằng cách thay bớt máu.
Không được. Ông đã ra đi.
Lúc đó ông 30 tuổi.
Nếu bạn quay lại ngày xưa,
hầu hết mọi người chết giống
ông cậu của tôi.
Hầu hết mọi người không chết
vì ung thư hay bệnh tim,
những bệnh do lối sống, gây đau đớn
trong xã hội phương Tây ngày nay.
Họ không chết vì những loại bệnh này
vì họ không sống đủ lâu để
các loại bệnh phát triển.
Họ chết vì các vết thương--
do con bò húc,
do trúng đạn ở chiến trường,
do bị tai nạn trong nhà máy
của cuộc cách mạng công nghiệp --
và phần lớn là do là nhiễm trùng,
chính nó chấm hết khi vết thương bắt đầu.
Tất cả đã thay đổi khi có kháng sinh.
Trước đây nhiễm trùng bị
coi là án tử, đột nhiên
nay trở thành cái có thể chữa được.
Dường như đó là phép lạ,
và từ đó, chúng ta sống trong kỷ nguyên
vàng của thuốc tây thần dược.
Giờ đây, chúng ta đang đi đến
đoạn cuối của thời hoàng kim.
Ông tôi chết trong thời kỳ cuối của
tiền-kháng-sinh.
Nay chúng ta sắp bước qua ngưỡng
của thời hậu-kháng-sinh,
trong những ngày đầu của thời kỳ này,
nhiễm trùng đơn giản
như trường hợp ông Joe của tôi
sẽ có thể giết người trở lại.
Thật vậy, chúng đã sẵn sàng rồi.
Người ta lại phải chết do nhiễm trùng
vì một hiện tượng
được gọi là kháng thuốc.
Vắn tắt, điều đó xảy ra thế này.
Vi khuẩn chiến đấu chống lại
nhau để có nơi sống và thức ăn,
bằng cách tạo ra những hợp chất nguy hiểm
để triệt tiêu lẫn nhau.
Vi khuẩn khác, để tự bảo vệ,
phát triển hệ tự vệ chống lại
những tấn công hóa học này.
Khi chúng ta tạo ra kháng sinh lần đầu,
ta đưa những hợp chất này vào phòng
thí nghiệm và tạo những phiên bản riêng,
và vi khuẩn đáp trả lại những tấn công
của ta theo cách của chúng.
Đây là điều đã xảy ra:
Penicillin được tung ra vào năm 1943,
và kháng penicillin rộng rãi
vào năm 1945.
Vancomycin ra đời năm 1972,
kháng vancomycin xuất hiện 1988.
Imipenem ra đời năm 1985,
và kháng imipenem xuất hiện năm 1998.
Daptomycin, một trong những thuốc mới,
ra đời năm 2003,
và kháng daptomycin xuất hiện liền
vào năm sau 2004.
Trong 70 năm, chúng ta đã chơi
trò nhảy cừu --
đó là thuốc và kháng thuốc,
và rồi thuốc khác,
rồi lại kháng thuốc khác --
và bây giờ cuộc vui sắp tàn.
Vi khuẩn phát triển kháng thuốc nhanh đến
mức mà các công ty dược
nhận thấy việc sản xuất kháng sinh
không còn là quan tâm hàng đầu của họ nữa,
vậy, có những nhiễm trùng lan rộng
khắp thế giới
trong trường hợp đó, hơn
100 loại kháng sinh
có bán trên thị trường,
chỉ 2 loại thuốc thích hợp,
hay chỉ một,
hay là không có.
Đây chính là trường hợp tương tự.
Năm 2000, Trung tâm Kiểm soát Dịch bệnh
và Phòng ngừa, gọi là CDC,
xác định một trường hợp
trong một bệnh viện ở North Carolina
bị nhiễm trùng kháng tất cả
các loại thuốc trừ hai loại.
Hôm nay, nhiễm trùng đó, được
biết với tên gọi KPC,
đã lan truyền khắp nước Mỹ ngoại trừ
3 tiểu ban,
và đến Nam Mỹ, Châu Âu
và Trung Đông.
Năm 2008, các bác sĩ ở Thụy Điển
chuẩn đoán một người đàn ông từ
Ấn Độ bị một nhiễm trùng lạ
kháng lại tất cả các loại thuốc
chỉ trừ một loại.
Gen mà nhiễm trùng này
tạo ra kháng thuốc,
được biết với tên gọi MDM, và lan truyền
từ Ấn đến Trung Quốc, Châu Á, Châu Phi,
Châu Âu và Canada, và Mỹ.
Người ta hy vọng
những loại nhiễm trùng này
chỉ là những ca đơn lẻ,
nhưng trên thực tế,
ở Mỹ và Châu Âu,
trong 1 năm, 50.000 người
chết vì nhiễm trùng mà
không có thuốc chữa.
Một dự án được tài trợ
bởi chính phủ Anh
gọi là chương trình Đánh giá
Kháng Kháng sinh
ước tính tổng số tử vong trên toàn
thế giới là 700.000 trong 1 năm.
Đó là con số tử vong quá lớn,
chưa hết, còn trường hợp có nguy cơ mà
bạn không tính hết,
đó là những trường hợp
bệnh nhân ở bệnh viện
những ca chăm sóc đặc biệt
hoặc bệnh nhân ngoại trú
ở giai đoạn cuối,
những trường hợp nhiễm trùng
bị cách li với chúng ta,
trong các hoàn cảnh mà
chúng ta không thể xác định được.
Điều bạn không nghĩ về,
không ai trong chúng ta nghĩ về cả,
đó là kháng sinh nâng đỡ hầu hết
mọi sự sống hiện đại.
Nếu chúng ta mất kháng sinh,
đây là cái chúng ta sẽ mất:
Thứ nhất, chúng ta mất sự bảo vệ
cho con người có hệ miễn dịch yếu--
bệnh nhân ung thư, SIDA,
bệnh nhân cấy ghép, trẻ đẻ non.
Tiếp đến, chúng ta mất cơ hội
xử lý cấy ghép vào cơ thể:
ống stent chống đột quỵ,
máy bơm cho bệnh tiểu đường,
máy lọc máu, thay khớp nhân tạo.
Bao nhiêu người độ tuổi "baby boom"
cần thay hông và đầu gối do chơi thể thao?
Một nghiên cứu mới đây thấy rằng
nếu không có kháng sinh,
thì trong sáu người đang sống,
một người sẽ bị chết.
Tiếp đến, chúng ta có lẽ sẽ không làm
phẫu thuật được nữa.
Nhiều ca phẫu thuật được dự kiến
phải dùng kháng sinh phòng ngừa.
Không được sự bảo vệ này,
chúng ta mất đi khả năng mở
những nơi trú ẩn an toàn cho cơ thể.
Vậy sẽ không thể mổ tim,
không thể sinh thiết tiền liệt tuyến,
không thể đẻ mổ.
Chúng ta phải biết sợ nhiễm trùng
mà hiện tại nó có vẻ rất tầm thường.
Viêm họng liên cầu đã từng gây ra suy tim.
Nhiễm trùng da đã từng phải
phẫu thuật cắt bỏ.
Dù ở trong những bệnh viện sạch nhất,
việc sinh con cũng giết
khoản 1 sản phụ trong số 100.
Viêm phổi lấy đi 3 trẻ em trong
số 10 trẻ mắc bệnh.
Còn nhiều thứ khác nữa,
chúng ta mất đi sự tự tin
trong cuộc sống hàng ngày.
Nếu bạn biết rằng bất cứ tổn thương
nào cũng có thể giết chết bạn,
bạn có dám cưỡi xe mô tô,
lao xuống dốc trượt tuyết,
leo thang để trang trí đèn Noel,
thả con bạn trên sàn nhà láng bóng?
Rồi, người đầu tiên dùng penicillin,
một viên cảnh sát Anh tên là
Albert Alexander,
người bị nhiễm trùng đến mức
da đầu rỉ mủ
và các bác sĩ đã phải bỏ đi một con mắt,
anh ta bị nhiễm
bởi một việc rất đơn giản.
Anh ta đi vào vườn
và bị bụi gai làm trầy sướt mặt.
Dự án Anh mà tôi nói đến
ước tính trên thế giới
có 700.000 ca tử vong mỗi năm
và dự đoán nếu chúng ta không thể
giữ được sự kiểm soát đến 2050,
không lâu hơn, toàn thế giới sẽ có
10 triệu ca tử vong mỗi năm.
Làm sao chúng ta ra đến mức này
với điều mà chúng ta phải dự đoán
là những con số khủng khiếp?
Câu trả lời khó khăn là,
do chính chúng ta.
Kháng thuốc là một quá trình sinh
học không thể khác được,
nhưng chúng ta chịu trách nhiệm
về việc làm nó xuất hiện nhanh.
Chúng ta làm điều đó khi dùng kháng
sinh vô tội vạ
với sự cẩu thả khủng khiếp.
Penicillin được bán khắp nơi cho đến
thập kỷ 1950.
Trong nhiều nước đang phát triển.
phần lớn kháng sinh này vẫn còn bán.
Ở Hoa Kỳ, 50%
kháng sinh này được dùng một cách
không cần thiết trong các bệnh viện.
45% đơn thuốc được viết trong
các phòng khám
cho kháng sinh không hiệu quả.
Đó đúng là điều xảy ra trong ngành y tế.
Nhiều nơi trên thế giới, người ta ăn
phần lớn thịt động vật có kháng sinh,
không phải để chữa bệnh,
nhưng vì người ta vỗ béo chúng
và để phòng ngừa
dịch bệnh trong các trang tại.
Ở Hoa kỳ, có thể 80%
kháng sinh được dùng mỗi năm
cho động vật chăn nuôi,
tạo ra vi khuẩn kháng
và lan truyền trong trang trại
trong nguồn nước, trong rác thải,
trong thịt động vật.
Nuôi trồng thủy sản cũng
phụ thuộc kháng sinh,
đặc biệt là ở châu Á,
và trồng cây ăn trái cũng
cần kháng sinh
để bảo vệ táo, lê, cam quít
chống sâu bệnh.
Vì vi khuẩn có thể truyền
ADN của chúng cho nhau
như là một người đi du lịch
gửi hành lý tại sân bay,
một khi chúng ta để kháng thuốc
xuất hiện,
thì sẽ không biết chúng
lan truyền đến đâu.
Điều đó đã có thể đoán trước.
Thực tế, điều đó đã được dự đoán
bởi Alexander Fleming,
người đã tìm ra penicillin.
Ông ta được nhận giải Nobel
năm 1945,
trong buổi phỏng vấn ngay sau đó
ông ta đã nhấn mạnh:
"Người vội vàng dùng penicillin
phải chịu trách nhiệm về
cái chết của người
bị nhiễm trùng
do vi khuẩn kháng penicillin."
Ông ta nói thêm : "Tôi hy vọng thứ
nguy hiểm này cần được hạn chế."
Chúng ta có thể ngăn
chặn được không?
Có những công ty sản xuất
kháng sinh mới,
loại siêu vi này
chưa bao giờ xuất hiện.
Tệ thật, chúng ta cần những
thuốc mới này,
chúng ta lại khuyến khích:
tài trợ phát hiện, bằng sáng chế,
giải thưởng, để nhử các công ty khác
tiếp tục tìm kháng sinh.
Nhưng điều đó có lẽ không đủ.
Đây là lý do: sự phát triển luôn đi trước.
Cứ trong 20 phút, vi khuẩn
tạo một thế hệ mới.
Thế mà các công ty dược phải cần
10 năm để tìm ra được một thuốc mới.
Mỗi thời chúng ta dùng một loại
kháng sinh,
chúng ta cho hàng triệu vi khuẩn
cơ hội
giải mã
hệ thống miễn dịch của mình.
Không có một loại thuốc nào
mà chúng không thể đánh bại.
Đây là cuộc chiến không cân sức,
nhưng chúng ta có thể thay đổi.
Ta có thể xây dựng hệ thống nhận dữ liệu
để báo một cách tự động và chuyên biệt
về cách dùng kháng sinh.
Ta có thể thiết lập cổng kiểm soát
cho việc kê đơn thuốc
để mọi đơn thuốc phải được kiểm tra
lại.
Chúng ta có thể đòi hỏi ngành nông nghiệp
từ bỏ dùng kháng sinh.
Chúng ta có thể xây dựng một hệ
thống giám sát
để cho chúng ta biết kháng thuốc sắp
đến sẽ ở đâu.
Đó là những giải pháp kỹ thuật.
Có thể chúng chưa đủ,
trừ phi chính chúng ta phải tự giúp mình.
Kháng thuốc là một thói quen.
Tất cả chúng ta biết sẽ rất khó
để thay đổi thói quen này.
Nhưng trong xã hội,
chúng ta đã làm được trong quá khứ.
Người ta đã từng xả rác ra đường,
không mang dây an toàn trên xe,
hút thuốc lá nơi công cộng trong nhà.
Chúng ta không làm những việc đó nữa.
Chúng ta không coi thường môi trường nữa
không đùa với những tai nạn nữa
không để người khác có nguy cơ
bị ung thư,
vì chúng ta biết những thứ này
quá đắc đỏ
và gây thiệt hại, nên ta không làm nữa.
Chúng ta đã thay đổi quy định xã hội.
Chúng ta cũng có thể thay đổi tiêu chuẩn
về cách dùng kháng sinh.
Theo tôi quy mô của
kháng thuốc
là quá lớn,
nhưng nếu bạn đã từng mua
một bóng đèn huỳnh quang
vì bạn lo ngại cho môi trường,
hoặc đọc nhãn hiệu trên một hộp bánh
vì bạn nghĩ về việc phá rừng để
trồng cọ lấy dầu,
bạn biết điều đó như là
làm một bước nhỏ để giải quyết
vấn đề vô cùng to lớn.
Chúng ta cũng có thể làm những việc
tương tự cho vấn đề kháng sinh.
Chúng ta có thể không kê đơn kháng sinh
khi không chắc điều đó là đúng đắn.
Chúng ta có thể dừng việc ra
đơn thuốc cho trẻ nhiễm trùng tai
trước khi không chắc hậu quả của nó.
Chúng ta có thể hỏi các nhà hàng,
các siêu thị,
về nguồn gốc các thực phẩm.
Chúng ta có thể hứa với mọi người
không bao giờ mua thức ăn,
tôm hoặc trái cây
có dùng kháng sinh,
và nếu chúng ta đã làm những điều đó,
chúng ta có thể làm chậm lại
thời hậu kháng sinh.
Nhưng chúng ta phải làm sớm đi.
Penicillin đã bắt đầu
thời kháng sinh vào năm 1943.
Đúng 70 năm sau, chính chúng ta bước lên
làn ranh của thảm họa.
Chúng ta sẽ không có 70 năm
để tìm ra đường để quay lại đâu.
Cám ơn rất nhiều.
(Vỗ tay)