CA: Cuộc phỏng vấn này
là một sự khác biệt.
Như người ta nói: Một bức tranh
bằng cả một ngàn lời,
tôi đã đề nghị
Bill và Melinda
đào trong kho lưu trữ của họ
để tìm vài bức ảnh
giúp ta nhớ lại
vài công việc họ đã làm,
ta sẽ điểm lại vài việc
theo cách như vậy.
Chúng ta sẽ bắt đầu ở đây.
Melinda, đây là khi nào
và ở đâu vậy?
người đàn ông đẹp trai
cạnh chị là ai vậy?
Người đeo cặp kính
to tướng này, huh?
Đây là ở châu Phi,
chuyến đi đầu tiên của chúng tôi,
lần đầu tiên hai
chúng tôi đến Châu Phi,
vào mùa thu năm 1993.
Chúng tôi đã đính hôn.
Chúng tôi kết hôn
vài tháng sau đó,
và đây là chuyến
chúng tôi thực sự đi xem
các loài động vật,
xem hoang mạc.
Rất tuyệt.
Bill chưa bao giờ
nghỉ phép dài như thế.
Điều khiến chúng tôi
cảm động là con người,
và sự nghèo khổ đến cùng cực.
Chúng tôi tự hỏi.
Cuộc sống cứ phải
như thế này chăng?
Vào cuối chuyến đi,
chúng tôi đến Zanzibar,
và đi dạo trên bờ biển,
đây là việc chúng tôi rất thích
khi mới quen nhau.
Trong lần đi dạo ấy
chúng tôi bàn nhau
rằng tiền kiếm được
từ Microsoft
sẽ được trao lại cho xã hội,
và từ cuộc đi dạo đó
trên bờ biển,
chúng tôi đã
bắt đầu bàn cách,
xem có thể làm gì
và làm như thế nào?
CA: Như vậy
là từ một kỳ nghỉ
đưa đến sự ra đời
của một quỹ tư nhân
lớn nhất thế giới,
thế hóa kỳ nghỉ này cũng
khá đắt giá đấy. (Cười)
MG: Công nhận.
Chúng tôi rất vui.
CA: Vậy ai trong anh chị
là người khởi xướng,
hay đây là
đồng thanh tương ứng?
BG: Tôi nghĩ
chúng tôi rất hào hứng
vì có một giai đoạn trong đời
được làm việc cùng nhau
và tìm cách làm thế nào
để trao món tiền trở lại xã hội.
Vào lúc này, chúng tôi
nói về những người ngèo nhất,
liệu mình có thể
làm gì để giúp họ?
Việc gì đây có thể làm
mà chúng ta chưa làm được?
Có nhiều điều
chúng tôi chưa biết.
Chúng tôi còn
dại khờ khủng khiếp,
khi chúng tôi nhìn lại.
Nhưng chúng tôi
có một niềm ấp ủ,
rằng sẽ có một lúc,
một thời kỹ hậu-Microsoft
là lúc chúng tôi làm
công việc từ thiện.
MG: Bill trước vẫn nghĩ
rằng thời đó sẽ đến
sau khi anh ấy 60 tuổi,
hiện giờ anh ấy
vẫn chưa đến 60,
nhiều điều đã thay đổi
trong quá trình.
CA: Công việc bắt đầu là vậy,
và tiến triển nhanh chóng.
Như vậy là vào năm '93,
và rồi đến năm '97,
thì quỹ đã được lập.
MA: Vâng, năm "97,
chúng tôi đọc một bài báo
về bệnh tiêu chảy trên thế giới
làm chết rất nhiều trẻ em,
và chúng tôi tự nhủ,
"Không thể như thế được.
Ở Mỹ, người ta chỉ việc
ra hiệu thuốc."
Thế là chúng tôi bắt đầu
tập hợp các nhà khoa học,
bắt đầu tiìm hiểu
về tình hình dân số,
về các loại vắc-xin,
loại nào có hiệu lực,
loại nào mất hiệu lực,
và chúng tôi thực sự
bắt tay vào việc,
vào cuối năm 1998, 1999.
CA: Như vậy là anh chị
có một món tiền kha khá
và đứng trước nhiều vấn đề
khác nhau trên thế giới.
Làm thế nào anh chị quyết
nên tập trung vào đâu?
BG: Chúng tôi quyết định
tập trung vào hai việc,
trên thế giới, đâu là nơi
thiếu thốn nhất,
ở đấy chúng tôi tập trung
vào trẻ em đang chết mòn,
các cháu không đủ
dinh dưỡng để lớn,
tại những nước
thật tuyệt vọng,
với tình hình
tử vong như vậy,
mà các gia đình
thì quá đông con
họ có mức tăng
dân số kinh khủng,
trẻ em thì quá ốm yếu,
các cháu không thể
học hành được tử tế
để cải thiện
cuộc sống cho mình.
Đấy là công việc
chúng tôi làm trên thế giới,
còn ở Mỹ,
cả hai chúng tôi đều được hưởng
sự giáo dục tuyệt vời,
và chúng tôi thấy rằng nước Mỹ
chỉ có thể thực hiện được lời hứa
dành cơ hội cho tất cả mọi người
bằng một hệ thống giáo dục tốt,
càng tìm hiểu kỹ hơn
chúng tôi càng nhận ra rằng
chúng ta chưa làm trọn
được lời hứa đó.
Chúng tôi đã hướng
vào hai đích đó,
và mọi việc mà Quỹ đã làm
là tập trung vào đó.
CA: Tôi đề nghị anh chị
chọn một hình ảnh,
để minh họa cho
công việc của anh chị,
Milinda, đây là
hình ảnh chị chọn.
Ý nghĩa của nó là gì vậy?
MG: Một trong những điều
tôi thích trong các chuyến đi
là ra vùng nông thôn
trò chuyện với chị em phụ nữ,
dù ở Bangladesh, Ấn độ
hay nhiều nước châu Phi,
tôi đến với họ như một phụ nữ
phương Tây vô danh.
Mặc bộ đồ ka-ki,
không nói mình là ại.
Và tôi nghe chuyện
từ những phụ nữ ấy,
lần này lượt khác,
càng đi càng nghe được nhiều,
"Tôi muốn được tiêm."
Tôi đến với họ
để nói về vắc-xin cho trẻ em,
và họ lái câu chuyện
sang hướng khác
"Thế còn mũi tiêm cho tôi thì sao?"
Đấy là mũi tiêm dành cho
phụ nữ, gọi là Depo-Provera,
một loại thuốc tránh thai.
Khi về nhà tôi nói chuyện với
các chuyên gia y tế thế giới,
và họ nói, "Ồ không,
thuốc tránh thai
hiện đang có sẵn tại
các nước đang phát triển."
Thế đấy, ta phải đào sâu
hơn các báo cáo.
và đây là điều
chúng tôi nhận ra,
đó là xác định được
mong muốn hàng đầu
của người phụ nữ châu Phi
đó là sử dụng phương tiện tránh thai
hơn 200 ngày
trong một năm
điều này giải thích tại sao
các chị nói với tôi,
"Tôi dấu chồng tôi,
đi bộ 10 cây số,
để đến phòng khám,
nhưng chẳng có gì ở đấy cả."
Như vậy là bao cao su
được cung cấp cho châu Phi
bởi công tác chống bệnh AIDS
do Mỹ và các nước giúp đỡ.
Nhưng chị em phụ nữ
nhiều lần nói với tôi rằng,
"Tôi không thể phó thác chuyện
đeo bao cao su cho chồng tôi.
Hoặc chồng tôi hoặc tôi
có thể bị AIDS,
và tôi còn cần cái ấy
vì tôi muốn đẻ thưa
để tôi còn có thể
nuôi các con tôi
và dạy dỗ chúng nên người."
CA: Melinda, chị là tín đồ
Roman Catholic,
và chị lâm vào thế khó xử
trong sự bàn cãi
về vấn đề này,
và về vấn đề nạo thai,
của cả hai phía, quả thật.
Vậy chị đã thoát ra
bằng cách nào?
MG: Vâng, tôi nghĩ đây
là điểm rất quan trọng,
đó là , với tư cách là một
cộng đồng trên thế giới
chúng tôi đã quay lưng lại
với các biện pháp tránh thai.
Chúng ta biết có
210 triệu phụ nữ
có nguyện vọng sử dụng các
biện pháp tránh thai
thậm chí các biện pháp
chúng ta đang có ở Mỹ,
nhưng chúng ta không
cung cấp phương tiện cho họ
vì những sự tranh cãi
chính trị ở trong nước Mỹ,
và tôi cho như thế là tội ác,
và tôi cứ tìm mãi xem có ai đó
sẽ đưa vấn đề này
lên diễn đàn thế giới,
cuối cùng tôi nhận ra
rằng chính tôi phải làm điều đó.
Ngay cả khi tôi là
một người theo đạo Catholic,
tôi vẫn tin vào
biện pháp tránh thai
cũng như hầu hết
phụ nữ Catholic ở Mỹ
vẫn đang dùng
các biện pháp tránh thai,
và tôi không nên để cho
sự tranh cãi ấy
thành sự níu kéo
cản trở chúng ta.
Chúng ta từng có
sự nhất trí ở Mỹ
về các biện pháp tránh thai,
và do đó chúng tôi trở lại
với sự đồng thuận toàn cầu ấy,
và quyên được 2,6 tỉ đô-la
để giải quyết chính vấn đề này
cho chị em phụ nữ.
(Vỗ tay)
CA: Bill, đây là biểu đồ của anh.
Anh định mô tả điều gì vây?
BG: Biểu đồ của tôi
có con số trên đó.
(Cười)
Tôi rất thích biểu đồ này.
Đây là số trẻ em
tử vong mỗi năm
trước tuổi lên năm.
Cái ta thấy ở đây
là một thành công lịch sử
nhưng chưa được
nhiều người biết đến,
nhưngchúng ta làm nên
một tiến bộ kỳ diệu.
Chẳng bao lâu sau
khi tôi ra đời
con số trẻ em tử vong
là 20 triệu
ngày nay con số đó
chỉ còn 6 triệu.
Đây là một câu chuyện
chủ yếu liên quan
đến vắc-xin.
Bệnh đậu mùa mỗi năm
cướp đi vài triệu trẻ em.
Chúng ta đã xóa được nó,
số tử vong nay bằng không.
Bệnh sưởi mỗi năm cũng
cướp đi vài triệu trẻ em.
Giờ đây giảm xuống
chỉ còn vài trăm ngàn.
Và đây là một biểu đồ
trên đó chúng ta muốn
thể hiện các con số tiếp tục,
và đó là điều có thể,
nếu khoa học đưa ra
các vắc-xin mới,
và vắc-xin đến được với trẻ.
Có thể giảm
số tử vong hơn nữa.
Thập kỷ vừa qua
con số đó đã giảm mạnh
hơn bao giờ hết
trong lịch sử,
đây là một thực tế
rất đáng mừng
nếu chúng ta tìm ra
loại vắc-xin mới,
và có thể đưa ra sử dụng,
dùng những hiểu biết
mới nhất trong lĩnh vực này,
để tiêm đúng,
hầu tạo ra một phép lạ.
CA: Tôi hiểu là theo
tính toán của anh
công việc đã tạo
biến chuyển trực tiếp
mỗi ngày hàng nghìn
trẻ em đã được cứu
so với năm trước.
Vấn đề này
không được đưa tin.
Một tai nạn máy bay
làm hơn 200 người chết
là chuyện gây chấn động
mạnh hơn chuyện này.
Anh có thấy vô lý
ở chỗ đó không?
BG: Vâng, vì đây là
việc diễn ra thầm lặng.
Đây là trẻ em,
mỗi ca là một cháu.
Chín mươi tám phần trăm
các trường hợp này
không liên quan gì
đến thảm họa thiên nhiên,
tuy nhiên, lòng từ thiện,
khi thấy thảm họa thiên nhiên,
thì cảm động.
Cách người ta nghĩ
rất là đặc biệt, okay,
đấy cũng có thể là tôi,
thế là tiền chảy vào.
Còn những công việc này
không dễ nhìn như vậy.
Hiện nay dự án
Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ
và các dự án khác
đang được triển khai,
ngày càng có nhiều
lòng hảo tâm,
mục tiêu là đưa con số này
xuống dưới một triệu,
điều này có thể đạt được
ngay khi chúng ta còn sống.
CA: Có thể cần có
những người
cảm nhận được
qua những con số và biểu đồ
chứ không chỉ qua
những khuôn mặt buồn
để động tâm giúp đỡ.
Ý tôi, theo cách anh
nói trong thư năm nay,
anh lập luận rằng
sự trợ giúp
trái ngược với những
chê bai trong dư luận
cho rằng sự trợ giúp
là vô ích và chắp vá,
thực ra nó rất có hiệu quả.
BG: Vâng, người ta
có thể chỉ nhìn vào
những sự trợ giúp
có tiếng nghe rất kêu
nhưng thực thi thì không tốt.
Có những dự án đầu tư vốn
có ý định rất hay
nhưng không thành.
Chúng ta không thể nói rằng
okay, vì những cái đó
vì chúng ta chưa làm được
một cách hoàn toàn,
nên nỗ lực này
là uổng công.
Chúng ta phải nhìn xem,
đâu là mục đích?
Làm thế nào nâng
chế độ dinh dưỡng
nâng tỉ lệ trẻ em sống sót
và số người biết chữ
để cho các nước đó có thể
đứng trên đôi chân của mình,
và thấy tuyệt,
công việc thật tốt đẹp,
họ trở nên giỏi dang hơn.
Chúng ta có thể dùng
tiền trợ giúp thông minh hơn.
Nó khôngphải là thuốc
chữa bách bệnh.
Ta có thể làm cái tốt hơn
là cho vay vốn đầu tư,
trong đó có những
dự án lớn như thế này.
CA: Người ta vốn cho rằng
hai vợ chồng thì khó
mà làm việc với nhau.
Anh chị cùng làm việc
với nhau như thế nào?
MG: Vâng có nhiều
phụ nữ nói với tôi,
"Tôi thực không tin có thể
cùng làm việc với chồng tôi.
Chuyện ấy không xảy ra."
Anh biết đấy, chúng tôi thích
làm việc cùng nhau --
quỹ này là một dịp
cho cả hai chúng tôi
vừa làm vừa học
dọc theo hành trình,
chúng tôi không đi
cùng với nhau nhiều
trong các hoạt động
của quỹ như trước đây
khi Bill còn làm việc
tại Microsoft.
Chúng tôi thường đi
công tác riêng,
nhưng khi tôi trở về,
Bill bao giờ cũng muốn biết
những điều tôi học được,
hoặc về những phụ nữ,
những cô gái tôi đã gặp
hoặc những tin mới về
tuyến cung cấp vắc-xin,
hoặc về một người lãnh đạo
mà chúng tôi khâm phục.
Anh ấy rất
quan tâm lắng nghe.
Anh ấy biết khi trở về nhà,
tôi luôn quan tâm muốn biết
về bài thuyết trình
anh ấy vừa đọc
hay những dữ liệu mới
hoặc điều anh ấy mới ngộ ra,
chúng tôi có mối quan hệ
hợp tác thực sự.
Nhưng không phải phút nào
cũng bên nhau, cái đó đã hẳn.
(Cười)
CA: Nhưng bây giờ chúng tôi
vui vì thấy anh chị bên nhau.
Melinda, trước đây
chủ yếu là chị
làm công việc này.
Sáu năm về trước,
theo tôi nhớ,
Bill thôi công việc
ở Microsoft
và dành toàn bộ thời gian
cho công việc này.
Hẳn việc điều chỉnh đó
cũng không phải dễ.
Phải không ạ?
MG: Vâng, tôi nghĩ thực ra,
đối với các nhân viên của Quỹ,
có nhiều điều
khiến họ phải điều chỉnh,
hơn là đối với tôi
khi Bill về đây.
Thực tế tôi rất vui.
Ý tôi là khi
Bill có quyết định này,
ngay trước khi
công bố vào năm 2006,
đây chính là quyết định
của anh ấy,
tuy nhiên, sâu xa
vẫn từ kỳ nghỉ bên bờ biển
khi chúng tôi
đi dạo cùng nhau
anh ấy bắt đầu
có ý tưởng này.
Với tôi, thì tôi rất vui
vì Bill quyết định đặt
hết tâm trí của anh ấy
vào những vấn đề
hóc búa toàn cầu này,
những sự bất công này.
Vâng, các nhân viên của Quỹ
có sự lo lắng về điều đó.
(Vỗ tay)
CA: Điều đó hiểu được.
MG: Nhưng sự lo lắng đó
tan biến trong vòng ba tháng,
một khi Bill đã ở đó.
BG: Tan biến cùng
một số nhân viên.
MG: Tôi đã nói,
đối với các nhân viên,
sự ngại ngần tan biến
sau ba tháng anh có mặt tại đấy.
BG: Không, tôi đùa thôi.
MG: Oh, ý anh là nhân viên không ai ra đi.
BG: Có một số ra đi, nhưng -
(Cười)
CA: Thế anh chị tranh luận
với nhau về vấn đề gì?
Chủ nhật, lúc 11giờ,
ngày nghỉ của anh chj,
điều gì đã đến,
Sự bàn luận đó ra sao?
BG: Chúng tôi đã cùng nhau
xây dựng công việc này
từ lúc ban đầu,
đây là sự chung tay
dày công vun đắp.
Tôi đã có điều đó với Paul Allen
trong những ngày đầu
của Microsoft.
Tôi có điều đó với Steve Ballmer
khi Microsoft mở rộng quy mô,
và giờ đây với Malinda,
là một đối tác
thậm chí còn mạnh hơn
và bình đẳng hơn,
chúng tôi đã
trao đổi rất nhiều
nên tập trung
nhiều hơn vào đâu,
nhóm nào đang
làm việc tốt?
Cô ấy hiểu được
nhiều vấn đề.
Cô ấy tiếp xúc rất nhiều
với các nhân viên.
Chúng tôi có các chuyến đi
khác nhau như đã nói.
Có rất nhiều sự phối hợp.
Không có một
trường hợp nào
giữa chúng tôi
ý kiến người này
lại át ý kiến người kia.
CA: Còn chị, Melinda,
Chị có át anh ấy không? (Cười)
Không biết được đâu nhé.
MG: Nó là thế này.
Chúng tôi tiếp cận vấn đề
từ những góc độ khác nhau,
thực tế tôi thấy
điều ấy rất hay.
Anh Bill có thể nhìn vào
các dữ liệu tổng quát
và nói, "Tôi muốn làm việc, căn cứ
vào thống kê toàn cầu thế này."
Còn tôi, tôi đi từ trực giác.
Tôi tiếp xúc với
rất nhiều người địa phương
và Bill dạy tôi cách
lấy điều thu lượm được
đối chiếu với dữ liệu toàn cầu
xem nó có hợp nhau không,
và điều tôi dạy anh ấy
là đem dữ liệu ấy
xuống gặp người dân
địa phương để tìm hiểu,
thực tế liệu có thể
tiêm loại vắc-xin đó không?
Liệu các bà mẹ có chấp nhận
cho con uống vắc-xin bại liệt?
nhỏ qua miệng?
Vì việc đưa được
đến nơi người dùng
cũng quan trọng
không kém gì khoa học.
Do đó tôi nghĩ ở đây
có sự hỗ trợ và bổ sung
giữa ý kiến của người này
với ý kiến của người kia,
chân thành mà nói,
công việc nhờ đó tiến triển tốt hơn.
CA: Vậy là việc tiêm vắc-xin,
phòng bại liệt và v.v
anh chị đã có những
thành công xuất sắc.
Còn những thất bại thì sao?
Anh chị có thể
kể ra một thất bại
đã cho anh chị
một bài học có ý nghĩa?
BG: May thay, chúng tôi
có thể trả giá cho một số thất bại,
vì chắc chắn chúng tôi
có thất bại.
Chúng tôi làm nhiều dự án
về thuốc và tiêm vắc-xin
mà anh biết là có nhiều thất bại.
Có một án chúng tôi phải dừng,
dù rất có tiếng vang
đó là tìm loại
bao cao su tốt hơn.
Thế đấy, có hàng trăm ý tưởng.
Trong đó có thể
chỉ một vài là khả thi.
Chúng tôi còn khờ,
tôi rất khờ về một loại thuốc
chữa bệnh ở Ấn độ,
tên là visceral leishmaniasis,
tôi cứ nghĩ rằng một khi
tôi có được thuốc này,
thì chúng ta sẽ
quét sạch được bệnh tật.
Nhưng thực tế
thuốc này phải tiêm
mỗi ngày một mũi,
liên tục mười ngày.
Lại phải mất thêm ba năm
so với dự kiến mới có,
rốt cuộc là không có cách gì
để đưa thuốc này sang đấy.
Rất may chúng tôi
phát hiện ra
nếu tiêu diệt loài ruồi cát,
thì có thể ngừa
bệnh này thành công,
nhưng chúng tôi
đã dành 6 năm,
có thể nói phí mất 6 năm,
và khoảng 60 triệu,
chỉ để đi đến
một kết quả
rất khiêm tốn.
CA: Anh chị đã chi khoảng
một tỉ đô-la mỗi năm
cho giáo dục
hay những việc tương tự.
Và câu chuyện diễn ra
trong lĩnh vực này
thì lại dài và phức tạp.
Vậy anh chị có thể
kể về một thất bại nào chăng?
MG: Có thể nói
có một bài học lớn
là lúc mới bắt đầu làm
chúng tôi nghĩ rằng
nên mở những
ngôi trường nhỏ,
trường nhỏ nhất định là tốt.
Ở đây tỉ lệ bỏ học thấp.
Ở đây ít bạo lực và tội phạm.
Nhưng điều tôi học
được về sau,
điều trở thành
chìa khóa thành công,
đó là phải có
người thầy giỏi đứng lớp.
Nếu anh không có
một giáo viên có hiệu quả
đứng trước lớp,
thì dù trường to
hay là trường nhỏ,
anh chẳng bao giờ
thay đổi được quỹ đạo
để chuẩn bị cho học sinh
sẵn sàng vào đại học.
(Vỗ tay)
CA: Chị Melinda,
đây là chị và
con gái đầu của chị, Jenn.
Hình như ảnh này mới chụp
cách đây ba tuần,
ba hay bốn tuần trước.
Đây là đâu vậy?
MG: Chúng tôi ở Tanzania.
Jenn đã từng đến Tanzania
Các con chúng tôi đến châu Phi
khá nhiều lần.
Chúng tôi làm một điều
cũng hơi khác,
đó là quyết định
ở cùng với một gia đình
trong hai đêm và ba ngày.
Anna và Sanare là
bố mẹ của gia đình này.
Họ mời chúng tôi đến
và nghỉ lại nhà họ.
Họ nuôi cả dê ở trong nhà,
dê cùng sống trong túp lều nhỏ
trước khi chúng tôi đến thăm.
Và chúng tôi đã
ở lại với gia đình họ
và thực sự, thực tế biết được
cuộc sống là như thế nào
ở vùng nông thôn Tanzania.
Điều đó khác hoàn toàn với
cuộc viếng thăm nửa ngày
hoặc ba phần tư ngày
thật khác xa so với
ở lại qua đêm,
để tôi giải thích thêm
một chút.
Họ có sáu con, tôi trò chuyện
với Anna trong bếp
vừa trò chuyện
vừa nấu ăn trong năm giờ
trong căn bếp nhỏ hôm đó,
trong khi trò chuyện,
chị cho tôi biết
đã thỏa thuận với chồng
về kế hoạch hóa gia đình
để có thể đẻ thưa.
Vợ chồng họ rất yêu nhau.
Đây là chiến binh Maasai và vợ,
họ đã quyết định lấy nhau,
họ có lòng kính trọng
và tình yêy trong quan hệ.
Họ có sáu người con,
hai cháu ở giữa sinh đôi, 13 tuổi,
một trai một gái, tên là Grace.
Chúng tôi ra ngoài lấy củi
và làm các việc thường ngày
Grace và mẹ vẫn làm
Grace không còn là một đứa trẻ
cô đã là một thanh niên
nhưng cô vẫn chưa là người lớn.
Cô bé rất, rất là e thẹn.
Cô rất muốn nói chuyện
với tôi và Jenn.
Chúng tôi tìm cách bắt chuyện
với cô, nhưng cô rất hay thẹn.
Rồi đêm đến,
khi mọi ngọn đèn đều tắt
trong vùng nông thôn Tanzania,
đêm ấy trời không có trăng,
đêm đầu tháng,
trời không có sao,
Jenn đi ra ngoài túp lều
mang theo chiếc đèn pha REI
bật đeo trên trán,
Grace lập tức đi theo,
và gọi người phiên dịch,
em đến bên Jenn và nói,
"Khi cậu về nhà,
cậu có thể cho tớ chiếc đèn
để tớ học vào ban đêm
có được không?"
CA: Oh, wow.
MG: Và bố cháu bảo với tôi
anh ấy rất là lo lắng
cho con gái
khác với đứa con trai
đã thi đỗ cấp hai,
con gái anh
bận nhiều việc nhà,
nên học không được tốt
và vẫn chưa được nhận
vào trường công lập.
Anh bảo: "Tôi không biết
sẽ trả tiền học cho con gái thế nào.
Tôi không thể trả học phí
cho trường tư,
cháu có thể chôn đời mình
ở nông trại này như vợ tôi."
Họ thấy sự khác biệt
mà giáo dục có thể mang lại
một cách lớn lao và sâu sắc.
CA: Đây là một bức ảnh khác
của hai đữa con khác của anh chị
Rory và Phoebe,
bên cạnh Paul Farmer.
Nuôi dạy ba đứa con
lại là gia đình giàu có
nhất trên thế giới
đó có vẻ là một
thực nghiệm về mặt xã hội
hiếm có tiền lệ.
Vậy anh chị
xoay xở như thế nào?
Đâu là cách
tiếp cận của anh chị?
BG: Vâng, có thể nói
nhìn chung
các con tôi được hưởng
một nền giáo dục rất tốt,
có điều phải làm cho các cháu
nhận thức được
về năng lực của mình
các cháu sẽ
đi đâu và làm việc gì,
và triết lý của chúng tôi
được làm rất rõ cho các con --
đó là hầu hết số tiền
sẽ đưa vào Quỹ --
và chúng tôi giúp các con
tìm điều khiến chúng say mê.
Chúng tôi muốn
tạo cho con sự cân bằng
giữa sự tự do làm điều mình thích
và không có quá nhiều tiền
để nhởn nhơ vô tích sự.
Đến giờ, các con tôi
đều khá siêng năng,
thích thú chọn lấy
hướng đi cho riêng mình.
CA: Anh chị giữ dìn cẩn thận
sự riêng tư chính đáng của các con.
Tôi tò mò tại sao
anh chị cho phép tôi
chiếu bức hình này tại TED.
BG: Vâng, đó một điều hay.
Khi các con tôi lớn dần lên,
chúng đều biết
rằng trách nhiệm là niềm tin
của gia đình chúng tôi,
rằng chỉ được sống ở Mỹ thôi
chúng tôi đã hưởng
một diễm phúc không thể tin được
và một nền giáo dục tuyệt vời,
và chúng tôi có trách nhiệm
trả ơn cho thế giới.
Bởi vậy khi các con tôi lớn lên
và chúng tôi dạy dỗ chúng --
chúng đã tới rất nhiều
nước trên thế giới --
các con tôi nói rằng,
chúng con muốn mọi người
biết rằng chúng con tin
vào những điều
bố và mẹ đang làm,
chúng con muốn
tiếp tục thấy điều đó.
Thế nên chúng tôi được
con cho phép khoe bức hình này,
và Paul Farmer có thể sẽ
đưa hình này
vào một số công trình
của anh ấy.
Các con tôi cũng
quan tâm sâu sắc
đến sứ mệnh của Quỹ.
CA: Anh chị dễ dàng
có đủ tiền
dù có đóng góp
to lớn cho Quỹ
để làm cho các con
thành tỷ phú
Anh chị có kế hoạch
như thế không?
BG: Không. Không. Không có
chuyện đó cho các con tôi.
Chúng cần có nhận biết
rằng công việc của chúng
là có ý nghĩa và quan trọng.
Trước khi lấy nhau,
chúng tôi có đọc một bài báo,
trong đó Warren Buffett
có nói về điều đó,
và chúng tôi hoàn toàn tin
rằng đấy không là một điều hay
cả cho xã hội
và cho lũ trẻ.
CA: Về Warren Buffett ,
có những điều kỳ diệu
đã xảy ra năm 2006,
khi một đối thủ thực sự
và duy nhất của anh chị
xét về góc độ là người
giàu nhất nước Mỹ
đột nhiên quay lại đồng ý
hiến 80% tài sản của ông
cho Quỹ của anh chị.
Làm thế nào
lại có chuyện đó?
Có một câu chuyện dài
và một câu chuyện ngắn.
Ta có đủ thời gian
cho câu chuyện ngắn.
BG: Được thôi. Warren là
một người bạn thân,
vợ ông ấy bà Suzie
bà sắp sửa cho đi
tất cả tài sản.
Bi kịch thay,
bà lại chết trước ông,
và thế là ông ấy
có tiếng nói quyết định, và
-- (Cười) --
ông ấy tuyên bố --
CA: Rằng...
BG: Nếu ông ấy biết một ai đó
đang làm tốt công việc này,
và sẵn lòng làm miễn phí,
thì có thể ông sẽ vui lòng.
Nhưng chúng tôi rất sửng sốt.
MG: Hoàn toàn sửng sốt.
BG: Không hề trông đợi điều đó,
và đấy là điều
không thể tin được.
Nó cho phép chúng tôi
có tham vọng làm được nhiều hơn
trong hoạt động
năng động của Quỹ.
Một nửa nguồn lực
chúng tôi có
đến từ sự hào hiệp
phi thường của Warren.
CA: Tôi biết là anh đã cam kết
rằng đến cuối đời,
hơn 95% tài sản của anh chị,
sẽ được trao cho Quỹ.
BG: Vâng.
CA: Bắt đầu từ lúc anh chị
đến với nhau, thật là kỳ diệu -
(Vỗ tay)
Vừa qua, anh và Warren
đã có những cuộc
tiếp xúc và thuyết phục
những nhà tỷ phú và
doanh nhân thành đạt
cam kết sẽ hiến tặng,
hơn nửa tài sản của họ
cho hoạt động từ thiện.
Tình hình việcđó ra sao?
BG: Hiện có 120 người
có sự cam kết hiến tặng này.
Cái hay là
chúng tôi gặp nhau
hàng năm để bàn bạc,
các anh thuê nhân viên,
vậy việc cho họ thế nào?
Chúng tôi không cố
làm mọi việc giống nhau.
Tôi muốn nói nét đẹp
của hoạt động từ thiện
là ở trong sự đa dạng này.
Người ta hiến tặng
cho một sự nghiệp nào đó.
Chúng ta nhìn và cảm kích,
"Wow."
Cái đó thật đáng quý.
Vai trò của việc từ thiện
là có nhiều cách
tiếp cận khác nhau,
gồm cả lĩnh vực như giáo dục.
Chúng ta cần có
nhiều thực nghiệm hơn nữa.
Nhưng thật tuyệt vời
được gặp những nhà hảo tâm,
chia sẻ những quan tâm
trên cùng một hành trình,
về cách họ để cho con cái
cùng tham gia công việc ra sao,
khi mỗi người làm
mỗi việc khác nhau,
đó là cách đưa đến thành công
hơn trông đợi.
Công việc xem ra tiếp tục
tiến triển về quy mô
trong những năm kế tiếp.
MG: Nhìn thấy người khác
đang tạo ra biến đổi
qua công việc từ thiện,
tôi muốn nói đến những người
coi đây là việc
của chính mình
họ mang tài nghệ khéo léo
theo sau những ý tưởng tốt đẹp.
Nếu họ dành hết tâm trí mình
cho công việc từ thiện,
họ có thể thay đổi thế giới.
Nhìn thấy người khác
làm việc thiện, họ tự bảo,
"Wow, tôi cũng muốn làm
việc đó bằng tiền của mình."
Tôi thấy sự kỳ diệu
nằm ở trong cái đó.
CA: Tôi thấy
quả thực là rất khó
để người ta có thể hình dung
làm thế nào có thể
chi một khoản tiền lớn
cho một việc nào đó,
ở một nơi xa xôi.
Có thể có một số
nhà tỷ phú hiện đang ngồi đây
và chắc chắn ở đây
có những người thành đạt.
Tôi tò mò muốn biết,
anh chị có toại nguyện không?
Đâu là sự toại nguyện?
BG: Đấy là điều
thỏa lòng nhất
mà chúng tôi có được,
và anh không thể
thỏa mãn và dừng lại đó,
nếu có gì đó chưa tốt
cho con cái của anh,
chúng ta hãy ngồi lại
và bàn cho ra
xem cần phải làm gì.
Thế giới đã tử tế hơn nhiều
nhờ các nhà hảo tâm
trong quá khứ,
với truyền thống tốt đẹp,
nước Mỹ rất mạnh về từ thiện,
khiến cả thế giới phải ghen tị.
Một điều làm tôi
rất lạc quan
là tôi tin rằng
hoạt động từ thiện
đang ngày càng gia tăng
và nó đang nhận lấy
những công việc
mà chính phủ làm chưa tốt
hay làm chưa xuể
và chỉ ra cách đi
và phương hướng đúng.
CA: Thế giới ở trong tình trạng
bất bình đẳng khủng khiếp,
vấn đề bất bình đẳng
ngày càng tăng
nó có vẻ như
thuộc về cấu trúc.
Tôi tin rằng nếu càng nhiều
đồng nghiệp của anh chị ở đây
làm công việc
mà anh chị đã làm
thì điều đó
sẽ có tác dụng
không chỉ khắc phục tình trạng
mà còn thay đổi nhận thức.
Liệu tôi nghĩ thế
có đúng không?
BG: Vâng đúng. Nếu ta
nhận từ người giàu nhất
đem cho người nghèo nhất,
thì đó là tốt lành.
Việc đó làm cân bằng,
cho nên là hợp lẽ.
MG: Nhưng anh thay đổi chế độ.
Ở Mỹ, chúng ta đang cố
thay đổi hệ thống giáo dục
để nó thành cơ hội
cho tất cả mọi người
và nó có hiệu quả
cho tất cả sinh viên.
Tôi nghĩ điều đó sẽ
thực sự biến đổi
tình trạng bất bình đẳng.
BG: Đó là điều quan trọng nhất.
(Vỗ tay)
CA: Vâng, tôi tin rằng
hầu hết mọi người ở đây
và hàng triệu người
trên thế giới
đều ngưỡng mộ
những quyết định
mà anh chị đã chọn trong đời
và mức độ ảnh hưởng lớn lao
mà anh chị mang đến
cho tương lai.
Cám ơn anh chị rất nhiều
vì đã đến với TED
và chia sẻ với chúng tôi
công việc anh chị đã làm.
BG: Cám ơn.
MG: Cám ơn.
(Vỗ tay)
BG: Cảm ơn.
MG: Cảm ơn rất nhiều.
BG: Thế em ạ, em làm rất tốt. (Vỗ tay)